Nêu nội dung và ý nghĩa của:
- Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật.
- Ba quy luật cơ bản.
Thứ Bảy, 14 tháng 4, 2012
HAI NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Bài:
HAI NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG
DUY VẬT
5.1. NGUYÊN LÝ
VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
Thế
giới được tạo thành từ những sự vật, những hiện tượng, những quá trình khác
nhau. Vậy giữa chúng có mối liên hệ qua
lại với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời
nhau? Nếu chúng tồn tại trong sự liên hệ
qua lại, thì nhân tố gì quy định sự liên hệ đó?
5.1.1. Khái
niệm về mối liên hệ phổ biến
5.1.1.1. Những quan điểm khác nhau trong việc xem xét
các sự vật hiện tượng
* Những người theo quan điểm siêu hình cho
rằng các sự vật và hiện tượng tồn tại một cách tách rời nhau, cái này bên cạnh
cái kia: giữa chúng không sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc lẫn nhau; có
chăng chỉ là những liên hệ hời hợt bên ngoài, mang tính ngẫu nhiên.
Trong
số những người theo quan điểm siêu hình cũng có người thừa nhận sự liên hệ và
đặc tính đa dạng của nó, nhưng lại phủ nhận khả năng chuyển hoá lẫn nhau giữa
các hình thức liên hệ khác nhau.
* Ngược lại, những người theo quan điểm biện
chứng coi thế giới như là một chỉnh thể thống nhất. Các sự vật, hiện tượng và
các quá trình cấu thành thế giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ qua
lại thậm nhập và chuyển hoá lẫn nhau.
5.1.1.2. Định nghĩa về mối liên hệ phổ biến:
Mối
liên hệ phổ biến là khái niệm chỉ mọi sự ràng buộc, tác động ảnh hưởng lẫn nhau
của các sự vật hiện tượng và trong những điều kiện nhất định gây nên sự chuyển
hoá.
5.1.2. Tính chất của mối liên hệ phổ biến :
5.1.2.1. Tính khách quan:
* Đó là mối liên hệ hiện thực của bản thân
thế giới vật chất chứ không phải do thượng đế hay tự người ta nghĩ ra.
* Trong hiện thực có rất nhiều mối liên hệ
như giữa cái vật chất với cái tinh thần, giữa những hiện tượng tinh thần với
nhau, liên hệ giữa các hình thức của tư duy.... Tất cả suy cho cùng đều là sự
phản ánh mối liên hệ phổ biến và sự quy định lẫn nhau giữa các sự vật hiện
tượng của thế giới khách quan.
5.1.2.2. Tính phổ biến
Đó
thể hiện sự liên hệ giữa các sự vật hiện tượng với nhau, liên hệ giữa các yếu
tố, các thuộc tính, đặc trưng... trong từng sự vật hiện tượng.
Mối
liên hệ tồn tại trong mỗi sự vật cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Ví dụ: Liên hệ giữa mặt trời và trái đất.
Liên
hệ vô cơ- hữu cơ- chất sống.
Liên
hệ thực vật với động vật.
Liên
hệ con người- tự nhiên- xã hội.....
5.1.2.3. Tính đa dạng của sự liên hệ qua lại đó:
Có
liên hệ bên ngoài, có mối liên hệ bên trong.
Có
mối liên hệ chủ yếu, có mối liên hệ thứ yếu.
Có
mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới, có mối liên hệ bao quát một số
lĩnh vực hoặc một lĩnh vực riêng biệt của thế giới đó.
Có
mối liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp mà trong đó có sự tác động qua
lại được thực hiện thông qua một hay một số khâu trung gian.
Có mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không
bản chất, liên hệ tất yếu và liên hệ ngẫu nhiên.
Có
mối liên hệ giữa các sự vật khác nhau, có mối liên hệ giữa các mặt khác nhau
của cùng một sự vật.
Sự
vật, hiện tượng nào cũng vận động và phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau,
giữa các giai đoạn đó cũng có mối liên hệ với nhau tạo thành lịch sử phát triển
hiên thực của các sự vật và các quá trình tương ứng…
Tính
đa dạng của sự liên hệ do tính đa dạng trong sự tồn tại, sự vận động và phát
triển của chính các sự vật và hiện tượng quy định.
5.1.2.4. Nguồn gốc của các mối liên hệ
* Những người theo chủ nghĩa
duy tâm tìm cơ sở của sự liên hệ, sự tác động qua lại giữa các sự vật, và hiện
tượng ở các lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức, ở cảm giác của con người.
Xuất phát từ quan điểm duy tâm chủ quan, Béccơli coi cơ sở của sự liên hệ giữa
các sự vật và hiện tưởng là cảm giác. Đứng trên quan điểm duy tâm khách quan,
Hêghen tìm cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật hiện tượng ở ý niệm
tuyệt đối.
* Những người theo quan điểm duy vật biện
chứng thì khẳng định rằng cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật và hiện
tượng là tính thống nhất vật chất của thế giới. Theo quan điểm này, các sự vật,
các hiện tượng trên thế giới dù có đa dạng, có khác nhau như thế nào chăng nữa
thì chúng cũng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là
thế giới vật chất. Ngay cả tư tưởng, ý thức của con người vốn là những cái phi
vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, nội dung của chúng cũng chỉ là kết quả
phản ánh của các quá trình vật chất khách quan.
5.1.3. Một số mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng
* Mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, là sự tác động lẫn
nhau giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt khác nhau của
một sự vật; nó giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát
triển của sự vật.
* Mối liên hệ bên ngoàì là
mối liên hệ giữa các sự vật, các hiện tượng khác nhau; nói chung, nó không có ý
nghĩa quyết định; hơn nữa, nó thường phải thông qua mối liên hệ bên trong mà
phát huy tác dụng đối với sự vận động và phát triển của sự vật. Chẳng hạn, sự phát triển của một cơ thể động
vật trước hết và chủ yếu là do các quá trình đồng hoá và dị hoá trong cơ thể đó
quyết định; môi trường (thức ăn, không khí…) dù có tốt mấy chăng nữa mà khả năng
hấp thụ kém, thì con vật ấy cũng không lớn nhanh được. Tương tự như vậy, cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại vừa tạo ra thời cơ, nhưng cũng vừa tạo
ra những thách thức to lớn đối với tất cả các nước chậm phát triển. Nước ta có
tranh thủ được thời cơ do cuộc cách mạng đó tạo ra hay không trước hết và chủ
yếu phụ thuộc vào năng lực của Đảng, của nhà nước và nhân dân ta. Song, cơ thể
cũng không thể tồn tại được, nếu không có môi trường; chúng ta cũng khó xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội, nếu không hội nhập quốc tế, không tận dụng
được những thành quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mà thế giới đã
đạt được. Nói cách khác, mối liên hệ bên ngoài cũng hết sức quan trọng, đôi khi
có thể giữ vai trò quyết định.
* Mối liên hệ bản chất và
không bản chất, mối liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên cũng có tính chất tương tự
như đã nêu ở trên, ngoài ra, chúng còn có những nét đặc thù. Chẳng hạn, cái
ngẫu nhiên khi xem xét trong quan hệ này, nhưng lại là tất nhiên khi xem xét
trong một mối quan hệ khác; ngẫu nhiên lại là hình thức biểu hiện ra bên ngoài
của cái tất nhiên; hiện tượng là hình thức biểu hiện ít nhiều đầy đủ của bản
chất. Đó là những hình thức đặc thù của sự biểu hiện những mối liên hệ tương
ứng. Như vậy, quan điểm duy vật biện chứng về sự liên hệ đòi hỏi phải thừa nhận
tính tương đối trong sự phân loại đó. Các loại liên hệ khác nhau có thể chuyển
hoá lẫn nhau. Sự chuyển hoá như vậy có thể diễn ra do thay đổi phạm vi bao quát
khi xem xét, hoặc do kết quả vận động khách quan của chính sự vật và hiện
tượng.
Ví dụ 1: Khi xem xét lĩnh vực
kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực xã hội, lĩnh vực tư tưởng - tinh thần như
là những thực thể khác biệt, thì sự liên hệ qua lại giữa chúng là liên hệ bên
ngoài.
Khi
xem đó là bốn lĩnh vực cơ bản cấu thành một chỉnh thể xã hội, thì mối liên hệ
giữa chúng là liên hệ bên trong.
Ví dụ 2: Các doanh nghiệp
A,B, C… trong nhiều năm trước đây tồn tại với tư cách là đơn vị độc lập, mối
liên hệ giữa chúng là mối liên hệ bên ngoài. Giờ đây các doanh nghiệp đó được
kết hợp lại thành công ty, thì mối liên hệ giữa chúng chuyển thành mối liên hệ
bên trong - khi xem công ty, tổng công ty là một sự vật.
Trong tính đa dạng của các
hình thức và các loại liên hệ tồn tại trong tự nhiên, trong xã hội và tư duy
con người, phép biện chứng duy vật tập trung nghiên cứu những loại liên hệ
chung, mang tính phổ biến. Những hình thức và những kiểu liên hệ riêng trong
các bộ phận khác nhau của thế giới là đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa
học khác.
5.2. NGUYÊN LÝ
VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
5.2.1. Những quan điểm khác nhau về sự phát triển
* Quan điểm siêu hình xem
phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi thuần tuý về lượng, không có sự thay
đổi về chất. Tất cả tính muôn vẻ về chất của sự vật và hiện tượng trên thế giới
là sự nhất thành bất biến trong toàn bộ quá trình tồn tại của nó. Sự phát triển
chỉ là thay đổi số lượng của từng loại đang có, không có sự nảy sinh những loại
mới và tính quy định mới về chất, có thay đổi về chất chằng nữa thì nó cũng chỉ
diễn ra theo một vòng tròn khép kín.
Quan
điểm siêu hình về sự phát triển cũng xem sự phát triển như là một quá trình
tiến lên liên tục, không có những bước quanh co phức tạp.
* Quan điểm duy vật biện
chứng Phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát hoá quá trình vận
động tiến hoá từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn.
* Phân biệt giữa phát triển
và vận động: Theo quan điểm duy vật biện chứng, phát triển là một trường hợp
đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát triển sẽ nảy sinh những tính quy
định mới cao hơn về chất, nhờ vậy, làm tăng cường tính phức tạp của sự vật và
của sự liên hệ, làm
cho cả cơ cấu tổ chức, phương
thức tồn tại và vận động của sự vật cùng chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn
thiện hơn.
Trong
hiện thực khách quan, tuỳ thuộc vào hình thức tồn tại cụ thể của các dạng vật
chất sự phát triển sẽ được thực hiện hết sức khác nhau. Trong giới hữu cơ, sự phát triển biểu hiện ở
việc tăng cường khả nằng thích nghi của cơ thể trước sự biến đổi của môi
trường, ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng hoàn thiện
hơn, ở khả năng hoàn thiện quá trình trao đổi chất giữa cơ thể và môi
trường. Trong xã hội, sự phát triển biểu
hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội để tiến tới mức độ ngày
càng cao trong sự nghiệp giải phóng con người.
Trong tư duy, sự phát triển biểu hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu
sắc, đúng đắn hơn đối với hiện thực tự nhiên và xã hội.
Quan điểm biện chứng về sự
phát triển thừa nhận tính phức tạp, tính không trực tuyến của bản thân quá
trình đó. Sự phát triển trong hiện thực và trong tư duy diễn ra bằng con đường
quanh co, phức tạp trong đó có thể có bước thụt lùi tương đối. Vận dụng quan
điểm đó về sự phát triển, vào việc xem xét đời sống xã hội, V.I.Lênin cho rằng
nếu hình dung sự phát triển lịch sử toàn thế giới như con đường thẳng tắp,
không có những bước quanh co, những sự thụt lùi đôi khi rất xa so với xu hướng
chủ đạo là không biện chứng.
Trong quan điểm biện chứng,
sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi về lượng dẫn đến
thay đổi về chất; sự phát
triển diễn ra theo đường xoáy trôn ốc, nghĩa là trong quá trình phát triển
dường như có sự quay trở lại điểm xuất phát, nhưng trên một cơ sở mới cao hơn.
* Nguồn gốc của sự phát triển:
Những
người theo quan điểm duy tâm thường tìm nguồn gốc đó ở các lực lượng siêu tự
nhiên hay ở ý thức con người. Hêghen lý giải sự phát triển của tự nhiên và xã
hội do ý niệm tuyệt đối quy định. Những người quan điểm duy tâm và tôn giáo tìm
nguồn gốc của sự phát triển ở thần linh ở Thượng đế… - nói chung là ở các lực
lượng siêu tự nhiên, phi vật chất. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn
của sự vật quy định. Phát triển đó là quá trình tự thân phát triển. Do vậy,
phát triển là quá trình khách quan, độc lập ngoài ý thức con người.
5.2.2. Tính chất của sự phát triển
5.2.2.1. Tính khách quan
Theo
quan điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản
thân sự vật, do mâu thuẫn của sự vật quy
định. Phát triển, trong quan điểm duy vật biện chứng, là quá trình tự thân của
mọi sự vật và hiện tượng. Do vậy, phát triển là một quá trình khách quan độc
lập với ý thức con người.
5.2.2.2. Tính phổ biến:
Tính phổ biến của sự phát
triển với nghĩa là sự phát triển diễn ra ở tất cả mọi lĩnh vực - từ
tự nhiên đến xã hội đến tư
duy, từ hiện thực khách quan đến những khái niệm, những phạm trù khách quan
phản ánh hiện thực ấy.
5.2.2.3. Tính chất phức tạp của sự phát triển
+ Phát triển không đơn giản chỉ là sự tăng
hay giảm đơn thuần về lượng, mà bao hàm cả sự
nhảy vọt về chất.
+ Phát triển không loại trừ
sự lặp lại hoặc thậm chí tạm thời đi xuống trong trường hợp cá
biệt, cụ thể. Nhưng xu hướng
chung là đi lên, là tiến bộ.
+ Phát triển bao hàm cả sự
phủ định cái cũ và sự nảy sinh cái mới. Sự lặp lại dường như cái
cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
Do vậy, phát triển là con đường xoáy ốc từ thấp đến cao
5.3. NGUYÊN TẮC
PHƯƠNG PHÁP LUẬN ĐƯỢC RÚT RA TỪ HAI NGUYÊN
LÝ
CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG :
5.3.1. Quan điểm toàn diện:
Từ
việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật hiện tượng,
chúng ta cần rút ra quan điểm toàn diện trong việc nhận thức, xem xét các sự
vật và hiện tượng cũng như trong hoạt động thực tiễn. Với tư cách là một nguyên
tắc phương pháp luận trong việc nhận thức các sự vật và hiện tượng, quan điểm
toàn diện đòi hỏi để có được nhận thức đúng đắn về sự vật, chúng ta phải xem
xét nó:
- Một là, trong mối liên hệ
qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính khác
nhau của chính sự vật đó;
Hai là, trong mối liên hệ qua
lại giữa sự vật đó với các sự vật khác (kể cả trực tiếp và gián tiếp). Hơn thế nữa, quan điểm toàn diện còn đòi hỏi
để nhận thức được sự vật, chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu
thực tiễn của con người. Ở mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất
định, con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được một số lượng hữu hạn những mối
liên hệ. Bởi vậy, tri thức đạt được về sự vật cũng chỉ là tương đối, không đầy
đủ, không trọn vẹn. Ý thức được điều đó, chúng ta sẽ tránh được việc tuyệt đối
hoá những tri thức đã có về sự vật, và tránh xem đó là những chân lý bất biến,
tuyệt đối không thể bổ sung, không thể phát triển. Để nhận thức sự vật, chúng ta
cần phải nghiên cứu tất cả các mối liên hệ, “cần thiết phải xem xét tất cả mọi
mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và sự cứng nhắc”
Quan
điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện và khác với chủ nghĩa chiết
trung và thuật nguy biện. (Tham khảo bảng so sánh sau)
Quan điểm phiến diện
|
Chủ nghĩa chiết trung
|
Quan điểm toàn diện
|
Thuật nguỵ biện
|
- Chú ý tới nhiều
mặt, nhiều mối liên
hệ của sự vật nhưng
đánh giá ngang
nhau những thuộc
tính quy định khác
nhau của sự vật
đựơc thể hiện trong
những mối liên hệ
khác nhau đó.
-
Thường xem xét
dàn trải, liệt kê
những tính quy định
khác nhau của sự
vật hay hiện tượng
mà không làm nổi
bật cái cơ bản, cái
quan trọng nhất của
sự vật hay hiện
tượng đó.
|
Tuy cũng tỏ ra chú
ý tới nhiều mặt khác
nhau, nhưng lại kết
hợp một cách vô
nguyên tắc những
cái hết sức khác
nhau thành một hình
ảnh không đúng về
sự vật. Chủ nghĩa
chiết trung không
biết rút ra mặt bản
chất, mối liên hệ căn
bản cho nên rơi vào
chỗ cào bằng các
mặt, kết hợp một
cách vô nguyên tắc
các mối liên hệ khác
nhau, do đó, hoàn
toàn bất lực khi cần
phải có quyết sách
đúng đắn.
|
- Quan điểm toàn diện
chân thực đòi hỏichúng
ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt,
nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ
khái quát để rút ra cái bản chất chi
phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó.
-
Quan điểm toàn diện
không đồng nhất với cách xem
xét dàn trải, liệt kê những tính quy định khác nhau của sự vật hay hiện tượng; nó đòi hỏi phải làm nổi bật cái cơ bản, cái
quan trọng nhất của sự vật hay hiện tượng đó.
|
Thuật nguỵ biện
cũng để ý tới những
mặt, những mối liên
hệ khác nhau của
sự vật, nhưng lại
đưa cái không cơ
bản thành cái cơ
bản, cái không có
bản chất thành cái
bản chất.
|
Từ
những điều vừa trình bày trên đây có thể rút ra kết luận rằng, quá trình
hình thành
quan điểm toàn diện đúng đắn
với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để nhận thức sự
vật sẽ phải trải qua các giai
đoạn cơ bản là đi từ ý niệm ban đầu về cái toàn thể đến nhận thức
một mặt, một mối liên hệ nào
đó của sự vật đó; cuối cùng, khái quát
những tri thức phong phú đó để rút ra tri thức về bản chất của sự vật.
Với
tư cách là nguyên tắc phương pháp luận trong hoạt động thực tiễn, nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến đòi hỏi để cải tạo được sự vật, chúng ta phải bằng hoạt
động thực tiễn của mình biến đổi những mối liên hệ nội tại của sự vật cũng như
những mối lên hệ qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác. Muốn vậy, phải sử
dụng đồng bộ nhiều biện pháp, nhiều phương tiện khác nhau để tác động nhằm thay
đổi những liên hệ tương ứng.
Vận
dụng quan điểm toàn diện vào hoạt động thực tiễn cũng đòi hỏi chúng ta phải kết
hợp chặt chẽ giữa “chính sách dàn đều”
và “chính sách có trọng điểm”
(V.I.Lênin). Trong khi khẳng định tính toàn diện, phạm vi bao quát tất cả các
mặt, các lĩnh vực của quá trình đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc là thứ VI
của Đảng cũng đồng thời coi đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị về
chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá; trong
khi nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới cả lĩnh vực kinh tế lẫn lĩnh vực chính
trị, Đảng ta cũng xem đổi mới kinh tế là trọng tâm. Thực tiễn 18 năm đổi mới ở
nước ta mang lại nhiều bằng chứng xác nhận tính đúng đắn của những quan điểm
nêu trên. Khi đề cập tới những vấn đề này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng đã khẳng định: “Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi
mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và chính
sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới
khác. Song, Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền
đề cần thiết về vật chất và tình thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng
và củng cố niệm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác nhau
của đời sống xã hội”
Cả
chủ nghĩa chiết trung lẫn thuật nguỵ
biện đều là những biểu hiện khác nhau của phương pháp luận sai lầm trong việc
xem xét các sự vật, hiện tượng. Cần lưu ý rằng mọi sự vật đều tồn tại trong
không- thời gian nhất định và mang dấu ấn của không - thời gian đó. Do vậy,
chúng ta cần có quan điểm lịch sử - cụ thể khi xem xét và giải quyết mọi vấn đề
do thực tiễn đặt ra.
5.3.2. Quan điểm lịch sử - cụ thể
Khi
xem xét và giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra đòi hỏi chúng ta phải chú
ý đúng mức tới hoàn cảnh lịch sử - cụ thể đã làm phát sinh vấn đề đó, tới sự ra
đời và phát triển của nó, tới bối cảnh hiện thực - cả khách quan lẫn chủ quan.
Khi quan sát một quan điểm, một luận thuyết cũng phải đặt nó trong những mối
quan hệ như vậy. Chân lý sẽ trở thành sai lầm, nếu nó bị đẩy ra ngoài giới hạn
tồn tại của nó. Chẳng hạn, khi đánh giá vị trí lịch sử của mô hình hợp tác xã
nông nghiệp ở miền Bắc vào những năm 1960 - 1970, nếu chúng ta không đặt nó vào
trong hoàn cảnh miền Bắc, đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, đặc biệt
từ giữa những năm 1965 - khi đế quốc Mỹ đã đưa cuộc chiến tranh xâm lược bằng
không quân ra miền Bắc, không đặt nó trong điều kiện chúng ta còn thiếu kinh
nghiệm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, còn bị ảnh hưởng rất lớn quan niệm về
mô hình chủ nghĩa xã hội đã được xác lập ở một loạt nước xã hội chủ nghĩa đi
trước thì chúng ta, một là, sẽ không thấy được một số giá trị tích cực của mô
hình hợp tác xã trong điều kiện lịch sử đó, hai là, sẽ không thấy hết những
nguyên nhân bên trong và bên ngoài dẫn đến việc duy trì quá lâu cách làm ăn như
vậy, khi hoàn cảnh đất nước đã thay đổi.
+ Khái
quát ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
và nguyên lý về sự phát triển, tức là phương pháp biện chứng trong việc nhận
thức và hoạt động thực tiễn, Ph.Ăngghen viết: “Phép biện chứng là phương pháp
mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư
tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận
động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”. Trong cùng một cách xem xét vấn
đề tương tự như vậy, V.I.Lênin cho rằng, để có tri thức đúng về sự vật, “bản
thân sự vật phải được xem xét trong những quan hệ của nó và trong sự phát triển
của nó”
.
5.3.3. Quan
điểm phát triển
Quan
điểm duy vật biện chứng về sự phát triển cung cấp cho chúng ta phương
pháp
luận khoa học để nhận thức và
cải tạo thế giới là: khi xem xét các sự vật và hiện tượng phải
đặt nó trong sự vận động, trong sự phát triển,
phải phát hiện ra các xu hướng biến đổi, chuyển hoá của chúng.
Quan
điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để nhận thức sự vật
hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Tuyệt đối hoá một
nhận thức nào đó về sự vật có được trong hoàn cảnh lịch sử phát triển nhất
định, ứng với giai đoạn phát triển nhất định của nó và xem đó là nhận thức duy
nhất đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ đưa
chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
Hơn
nữa, quan điểm phát triển cũng đòi hỏi không chỉ thấy sự vật như là cái đang
có, mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển trong tương lai của nó. Trong
quá trình phát triển, sự vật thường đồng thời có những sự biến đổi tiến lên và
có cả những biến đổi thụt lùi. Quan điểm phát triển đúng
đắn về sự vật chỉ có được, khi bằng tư duy khoa học chủ thể khái quát để làm
sáng tỏ xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó. Sự phát triển
của các sự vật và hiện tượng trong thực tế là quá trình biện chứng đầy mâu
thuẫn. Do vậy, quan điểm phát triển được
vận dụng vào quá trình nhận thức cũng đòi hỏi chúng ta phải thấy rõ tính quanh
co, phức tạp của quá trình phát triển như là một hiện tượng phổ biến.
Thiếu
quan điểm khoa học như vậy, người ta rất dễ bi quan, dao động khi mà tiến trình
cách mạng nói chung và sự tiến triển của từng lĩnh vực xã hội cũng như cá nhân
nói riêng tạm thời gặp khó khăn, trắc trở. Vận dụng quan điểm phát triển với tư
cách là nguyên tắc phương pháp luận của hoạt động thực tiễn nhằm thúc đẩy sự
vật phát triển theo quy luật vốn có của nó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra mâu
thuẫn của chính sự vật, và bằng hoạt động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn.
Chỉ bằng cách đó, chúng ta mới góp phần tích cực vào sự phát triển.
Sự phát triển biện chứng của
các quá trình hiện thực và của tư duy được thực hiện bằng con
đường thông qua những sự tích
luỹ về lượng mà tạo ra sự thay đổi về chất, thông qua phủ định của phủ định. Do
vậy, việc vận dụng quan điểm phát triển vào hoạt động thực tiễn nhằm cải tạo sự
vật đòi hỏi chúng ta phải phát huy nỗ lực của mình trong việc hiện thực hoá hai
quá trình nêu trên.
KẾT LUẬN
Phép
biện chứng duy vật bao hàm nội dung hết sức phong phú, bởi vì đối tượng phản
ánh của nó là thế giới vật chất vô cùng vô tận. Trong đó, nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là có ý nghĩa bao quát nhất. Nghiên
cứu hai nguyên lý này đem lại cho chúng ta quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử
cụ thể và quan điểm phát triển trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn. Khi vận dụng các quan điểm này, đòi hỏi vận dụng một cách tổng hợp, bởi
vì chính trong quá trình liên hệ tác động qua lại biện chứng mà sự vật vận
động, phát triển và diễn ra trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể
LỊCH HỌC MÔN TRIẾT HỌC
Khoa: Lý Luận Mác
Lênin Lịch
học tập môn: Triết học
Khối lớp: TCCT-HC(CT
mới 2) Bắt đầu
học: 07/04/2012- Kết thúc:23/06/2012
Tên lớp: Bình Chánh
(H315) Số lượng ngày học: 11 Hình thức thi:
NGÀY HỌC
|
NỘI DUNG
|
TÊN GIÁO VIÊN
|
SỐ TIẾT
|
Thứ bảy
07/04/2012
|
- Nhập môn
- Vật chất ý thức
|
Ts. Trần Văn Khánh
|
10
|
Thứ bảy
14/04/2012
|
Phép biện chứng duy vật
|
Th.s Lê Thị Hồng Hà
|
10
|
Thứ bảy
21/04/2012
|
Phạm trù + Lý luận nhận thức
|
Th.s Đào Xuân Thủy
|
10
|
Thứ bảy
28/04/2012
|
Thảo luận Triết học lần 1
|
Th.s Nguyễn Thị Vân
Th.s Đào Xuân Thủy
|
10
|
Thứ bảy
05/05/2012
|
Hình thái kinh tế xã hội
|
Th.s Nguyễn Thị Vân
|
10
|
Thứ bảy
12/05/2012
|
Thảo luận Triết học lần 2
|
T.s Trần Văn Khánh
Th.s lê Thị Hồng Hà
|
10
|
Thứ bảy
19/05/2012
|
Giai cấp, dân tộc, nhà nước
|
Th.s Nguyễn Thị Vân
|
10
|
Thứ bảy
29/05/2012
|
Cách mạng xã hội, quần chúng nhân dân..
|
Th.s Nguyễn Thị Vân
|
10
|
Thứ bảy
02/06/2012
|
Ý thức xã hội
|
Th.s Lê Thị Hồng Hà
|
10
|
Thứ hai
04/06/2012
Dự kiến học tại
TTBDCT
|
Thảo luận Triết học lần 3
|
Th.s Nguyễn Thị Vân
Th.s Đào Xuân Thủy
|
10
|
Thứ ba
05/06/2012
|
Hệ thống
|
T.s Trần Văn Khánh
|
10
|
Thứ tư
06/06/2012
|
Ôn
|
||
Thứ năm
07/06/2012
|
Ôn
|
||
Thứ sáu
07/06/2012
|
Thi Triết học
|
Ghi chú:
Trụ sở làm việc mới của TTBDTT Huyện:A4/1A - ấp 1 – Đường
Hoàng Phan Thái – xã Bình Chánh ( Nhà văn hóa xã Bình Chánh).
- ĐT:08-7602.173
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)