I. VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN
XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
1. Sản xuất vật chất và vai trò của nó
a. Khái niệm sản xuất vật chất và phương thức sản xuất
Khái niệm sản xuất vật chất và các nhân tố cơ bản của quá
trình sản xuất vật chất
Sản xuất là một loại hình hoạt động đặc trưng của con người
và xã hội loài người, bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản
xuất ra bản thân con người. Ba quá trình đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động
qua lại với nhau, trong đó sản xuát vật chất là cơ sở cho sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Theo Ph.Ăngghen: “điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài
người với xã hội loài vật là ở chỗ: loài vật may lắm chỉ hái lượm, trong khi
con người lại sản xuất” (C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 1995, t.34, tr.241. )
Sản xuất vật chất là một loại hình hoạt động thực tiễn với
mục đích cải biến các đối tượng của giới tự nhiên theo nhu cầu tồn tại, phát
triển của con người và xã hội. Với nghĩa như vậy, sản xuất vật chất là một loại
hoạt động có tính khách quan, tính xã hội, tính lịch sử và tính sáng tạo.
Bất cứ quá trình sản xuất nào cũng gồm ba yếu tố cơ bản: sức
lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động:
Sức lao động: là toàn bộ thể lực và trí lực của con người có
khả năng được vận dụng, sử dụng trong quá trình sản xuất vật chất. Sức lao động
và laođộng là hai khái niệm khác nhau nhưng có liên quan với nhau. Lao động là
quá trình con người sử dụng sức lao động trong quá trình sản xuất vật chất.
Sức lao động là tiền đề để có quá trình lao động nhưng nếu
không có quá trình lao động thì sức lao động chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng. Đối
tượng lao động: là những tồn tại của giới tự nhiên mà con người tác động vào
chúng trong quá trình lao động.
Tư liệu lao động: là những phương tiện vật chất mà con người
sử dụng trong quá trình lao động để tác động vào đối tượng lao động.
Khái niệm phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là những cách thức mà con người sử dụng
để tiến hành quá trình sản xuất của xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định.
Mối xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định đều có phương
thức sản xuất của nó với những đặc điểm riêng. Mỗi phương thức sản xuất đều có
hai phương diện cơ bản của nó là kỹ thuật và kinh tế.
Phương diện kỹ thuật của phương thức sản xuất là chỉ quá
trình sản xuất được tiến hành bằng cách thức kỹ thuật, công nghệ nào để biến
đổi các đối tượng lao động.
Phương diện kinh tế của phương thức sản xuất là chỉ quá
trình sản xuất được tiến hành với những cách thức tổ chức kinh tế nào. Trong
các xã hội nông nghiệp truyền thống, phương thức kỹ thuật chủ yếu của quá trình
sản xuất là các công cụ kỹ thuật thủ công với quy mô nhỏ và khép kín về phương
diện kinh tế. Ngược lại, trong các xã hội hiện đại, quá trình sản xuất được
tiến hành với phương thức kỹ thuật công nghiệp và tổ chức kinh tế thị trường
với quy mô ngày càng mở rộng.
b. Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất đối
với sự tồn tại và phát triển của xã hội
Sản xuất vật chất giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại
và phát triển của xã hội, là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những
mối quan hệ xã hội của con người; nó là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và
phát triển của xã hội loài người.
Xuất phát từ nhân tố “con người hiện thực” C.Mác cho rằng,
tiền đềđầu tiên của mọi sự tồn tại của con người và đó là việc: “con người ta
phải có khả năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử”. Muốn vậy con người cần
có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo... những thứ đó chỉ có thể được tạo ra từ
sản xuất vật chất. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên của con người là việc sản
xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, đó là hoạt động cơ bản của
con người, là cái để phân biệt hoạt động của con người với con vật. Để tiến
hành sản xuất vật chất con người phải có không chỉ có quan hệ với tự nhiên mà
phải có quan hệ với nhau và trên cơ sở những quan hệsản xuất này mà phát sinh
các quan hệ khác như: chính trị, đạo đức, pháp luật...Vì vậy, trong quá trình
sản xuất vật chất con người không những làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội
đồng thời làm biến đổi cả bản thân mình. Do đó, sản xuất vật chất không ngừng
phát triển tất yếu làm cho xã hội không ngừng phát triển.
Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi,
phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. Sự vận động, phát triển của xã hội suy
cho cùng có nguyên nhân từ sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Do đó, để
giải thích và giải quyết các vấn đề của đời sống xã hội thì phải xuất phát từ
thực trạng sản xuất vật chất của xã hội.
Lịch sử phát triển của xã hội là lịch sử phát triển của các
phương thức sản xuất từ thấp đến cao. Suy cho cùng cái để phân biệt các thời
đại kinh tế không phải ở chỗ nó sản xuất ra cái gì mà là nó được tiến hành bằng
cách nào và với công cụ gì. Quan điểm về vai trò quyết định của phương thức sản
xuất đối với trình độ phát triển của sản xuất và xã hội là cơ sở để giải thích
sự phát triển của lịch sử nhân loại, đó chính là lịch sử phát triển thay thế
của phương thức sản xuất.
Sự thay thế và phát triển của các phương thức sản xuất phản
ánh xu hướng tất yếu khách quan của quá trình phát triển xã hội loài người từ
trình độ thấp đến trình độ cao. Sự thay thế của phương thức sản xuất này bằng
phương thức sản xuất khác có thể diễn ra theo quy luật phát triển tuần tự hoặc
nhảy vọt, bỏ qua một phương thức sản xuất nào đó trong những điều kiện nhất
định, hoặc có thể có sự đan xen giữa các phương thức sản xuất trong những giai
đoạn nhất định tạo nên tính phong phú, đa dạng về con đường phát triển của các
dân tộc trong lịch sử.
Nhận thức được vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn
tại và phát triển của xã hội. Trên cơ sở đó trong nhận thức là cơ sở giúp cho
chúng ta nhận thức được rằng, mọi hoạt động thực tiễn và nhận thức phải dựa
trên nền tảng sản xuất vật chất.
Sự biến đổi của phương thức sản xuất quyết định sự biến đổi,
phát triển của xã hội do đó để thúc đẩy xã hội phát triển cần phải thúc đẩy sự
phát triển của phương thức sản xuất. Quá trình vận động, phát triển, thay thế
của phương thức sản xuất trong lịch sử là quá trình phong phú, đa dạng do đó
các dân tộc phải tùy thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể để lựa chọn con đường
phát triển riêng của mình, phù hợp với quy luật vận động khách quan của lịch sử.
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.
a. Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất và các yếu tố cơ bản cấu thành lực lượng
sản xuất Lực lượng sản xuất là toàn bộ các nhân tố vật chất, kỹ thuật của quá
trình sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau tạo ra sức
sản xuất làm cải biến các đối tượng trong quá trình sản xuất, tức là tạo ra
năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo
nhu cầu nhất định của con người và xã hội.
Lực lượng sản xuất bao gồm: Người lao động (như năng lực, kỹ
năng, tri thức...) và các tư liệu sản xuất (gồm đối tượng lao động và tư liệu
lao động) trong đó nhân tố người lao động giữ vai trò quyết định. Sở dĩ như vậy
là vì suy đến cùng các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người,
đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc vào
trình độ sử dụng của người lao động. Trong tư liệu sản xuất, nhân tố công cụ
lao động do con người sáng tạo ra phản ánh rõ nhất trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Ngày nay, với sự phát triển và ứng dụng nhanh chóng những thành
tựu của khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất làm cho
các tri thức khoa học kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy
sự phát triển và chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức.
Lực lượng sản xuất phản ánh quan hệ giữa con người với giới
tự nhiên trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất là nhân tố cơ bản, tất
yếu tạo thành nội dung vật chất của quá trình sản xuất. Thế nhưng, chỉ có lực
lượng sản xuất vẫn chưa thể diễn ra quá trình sản xuất hiện thực. Để quá trình
sản sản xuất diễn ra còn phải có những quan hệ sản xuất đóng vai trò là hình
thức kinh tế của quá trình sản xuất ấy. Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế
giữa người và người trong quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản
xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm.
Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mối quan hệ thống
nhất và chi phối, tác động lẫn nhau, trong đó quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất
giữa vaitrò quyết định.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất là
mối quan hệ thống nhất biện chứng trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan
hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất. Lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất,
trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn
quan hệ sản xuất là hình thức kinh tế của quá trình đó.
Trong quá trình sản xuất, không thể có sự kết hợp các yếu tố
sản xuất diễn ra bên ngoài những hình thức kinh tế nhất định; ngược lại cũng
không có quátrình sản xuất nào lại có thể diễn ra chỉ với những quan hệ sản
xuất mà không có nội dung vật chất của nó. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau.
Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất tuân theo nguyên tắc khách quan: quan hệ sản xuất phụ thuộc vào thực
trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất được thể
hiện ở chỗ:
- Lực lượng sản xuất thế nào thì quan hệ sản xuất phải thế
ấy tức là quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. - Khi lực lượng sản xuất biến đổi quan hệ sản xuất sớm muộn cũng phải
biến đổi theo. - Lực lượng sản xuất quyết định cả ba mặt của quan hệ sản xuất
tức là quyết định cả về chế độ sở hữu, cơ chế tổ chức quản lý và phương thức
phân phối sản phẩm.
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất với tư cách là hình thức kinh tế
của quá trình sản xuất luôn có tác động trở lại lực lượng sản xuất. Sự tác động
này diễn ra theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào
tính phù hợp hay không phù hợp của quan hệ sản xuất với thực trạng của lực
lượng sản xuất.
- Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất sẽ tạo
ra tác động tích cực, thúc đẩy và tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát
triển.
- Nếu không phù hợp sẽ tạo ra tác động tiêu cực, tức là kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
mối quan hệ thống nhất có bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập và
phát sinh mâu thuẫn.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thống nhất với nhau
trong một phương thức sản xuất, tạo nên sự ổn định tương đối, đảm bảo sự tương
thích giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, tạo điều kiện cho sản xuất
phát triển.
Lực lượng sản xuất không ngừng biến đổi, phát triển, tạo ra
khả năng phá vỡ sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất làm
xuất hiện nhu cầu khách quan phải tái thiết lập quan hệ thống nhất giữa chúng
theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với yêu cầu phát triển của lực
lượng sản xuất. Sự vận động của mâu thuẫn này tuân theo quy
luật “từ sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất và ngược lại”, “quy
luật phủ định của phủ định”, khiến cho quá trình phát triển của sản xuất xã hội
vừa diễn ra với tính chất tiệm tiến, tuần tự lại vừa có tính nhảy vọt với những
bước đột biến, kế thừa và vượt qua của nó ở trình trình độ ngày càng cao hơn.
Sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất là nguồn gốc và động lực cơ bản của sự vận động, phát triển
các phương thức sản xuất. Nó là cơ sở để giải thích một cách khoa học vềnguồn
gốc sâu xa của toàn bộ hiện tượng xã hội và sự biến động trong đời sống chính
trị, văn hóa của xã hội.