Thứ Hai, 14 tháng 5, 2012

8 giải pháp kiềm chế lạm phát của ĐHĐB lần thứ XI



       Trong 8 giải pháp được Chính phủ đưa ra tại phiên họp thường kỳ tháng 3/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: không tăng giá bán than cho ngành điện, không tăng giá điện và giá xăng dầu…
Ngày 25/3 tại Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3. Chính phủ đã nghe báo cáo và tập trung thảo luận về tình hình kinh tế, xã hội tháng 3 cũng như quý 1 năm 2008, đồng thời xác định mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định nền kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và duy trì tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế. Đây là một trong những nội dung quan trọng nhất của phiên họp Chính phủ lần này.
          Chính phủ đã dành cả ngày 25/3 nghe báo cáo và tập trung thảo luận các giải pháp ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và duy trì tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế. Trên cơ sở ý kiến của các thành viên Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ: bối cảnh nền kinh tế thế giới suy giảm, đồng đô la mất giá, giá cả tăng cao trên phạm vi toàn cầu đã và đang tác động trực tiếp tới nền kinh tế nước ta. Thêm vào đó, thiên tai, dịch bệnh trong nước gây thiệt hại nặng nền đến nền kinh tế, nhất là trong sản xuất nông nghiệp. Trước tình hình này, Chính phủ đã chỉ đạo ngay từ đầu năm và thực hiện quyết liệt các giải pháp nên mức tăng trưởng kinh tế quý 1 tiếp tục tăng trưởng khá (khoảng 7,4%). Lạm phát tháng 3 đã có dấu hiệu chững lại so với tháng trước. Chính phủ cũng chỉ đạo các bộ, ngành và các địa phương tích cực hỗ trợ người nghèo, người khó khăn trong bối cảnh giá cả tăng cao. Thủ tướng cũng nêu rõ 3 vấn đề lớn nổi lên trong quý 1, đó là tăng trưởng kinh tế khá nhưng vẫn thấp hơn cùng kỳ năm ngoái và có dấu hiệu giảm, nhất là giảm giá trị sản xuất công nghiệp và xuất khẩu; lạm phát cao, nhập siêu lớn, thị trường chứng khoán sụt giảm đe dọa ổn định nền kinh tế vĩ mô, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống nhân dân; xuất hiện tâm tư lo lắng về giá cả, lạm phát ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống.
            Trên cơ sở dự báo nền kinh tế thế giới phục hồi sớm nhất cũng vào năm 2009; giá cả thế giới đứng ở mặt bằng cao. Còn trong nước, tuy tiềm năng tăng trưởng lớn nhưng khả năng thực hiện mục tiêu đề ra từ đầu năm là phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2008 từ 8,5- 9% là rất khó; khả năng kiểm soát lạm phát thấp hơn tốc độ tăng trưởng cũng không còn khả thi. Chính vì vậy, Chính phủ nhất trí điều chỉnh mục tiêu chống lạm phát và mức tăng trưởng trong năm 2008 thích hợp trong tình hình mới, gắn liền với đảm bảo an sinh xã hội khi giá cả tăng cao.
           Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ 8 giải pháp cần tập trung chỉ đạo và điều hành nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và duy trì tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế.
        Trước hết, tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng theo nguyên tắc thị trường một cách chặt chẽ, chủ động và linh hoạt, bảo đảm mục tiêu chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm huy động các nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế. 
          Thứ hai, tăng thu gắn liền với thắt chặt, tiết kiệm chi tiêu, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, hạn chế bội chi ngân sách. Thủ tướng yêu cầu hệ thống chính trị phải gương mẫu thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên; cắt giảm các khoản chi chưa thật cần thiết; thực hiện các biện pháp tiết kiệm xăng, dầu; rà soát và giảm các hạng mục, công trình chưa thật bức thiết, đồng thời kêu gọi nhân dân thực hành tiết kiệm tiêu dùng. 
          Thứ 3, Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành dứt khoát phải chịu trách nhiệm đảm bảo cân đối cung cầu các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống và sản xuất như xăng, dầu, gạo, thuốc, xi măng, sắt, thép, phân bón... gắn liền với kiểm soát chặt chẽ giá cả. Một lần nữa Thủ tướng khẳng định: không tăng giá bán than cho ngành điện, không tăng giá điện và giá xăng dầu. Nhà nước tiếp tục bù lỗ cho các mặt hàng này nhằm ổn định giá.
          Thứ 4, Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, chính quyền các địa phương, hiệp hội các ngành hàng tăng cường các biện pháp quản lý thị trường giá cả, tổ chức tốt thương mại trong nước, kêu gọi các doanh nghiệp có trách nhiệm với đất nước không đầu cơ trục lợi và tăng giá các mặt hàng. 
          Thứ 5, tìm mọi cách đẩy mạnh xuất khẩu để giảm nhập siêu. Thủ tướng nhấn mạnh, không có xuất khẩu thì không có tăng trưởng nên tập trung đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh như thuỷ sản, dệt may và da giầy... Thủ tướng nhấn mạnh, Chính phủ sẽ kiểm soát quyết liệt nhập siêu bằng cả biện pháp thị trường và hành chính vì lợi ích của nhân dân và đất nước. Bộ Công thương nghiên cứu hạn chế nhập siêu các mặt hàng không thiết yếu như ô tô nguyên chiếc, phụ tùng xe máy... phấn đấu kiểm soát nhập siêu trong năm 2008 tương đương năm ngoái, tiến tới cân bằng cán cân thương mại. 
          Thứ 6, tập trung ưu tiên tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất công-nông nghiệp và dịch vụ. Nhanh chóng khắc phục khó khăn do hạn hán, rét đậm vừa qua gây ra để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, tăng cường các biện pháp phòng chống, kiểm soát và khống chế dịch bệnh bùng phát và lan rộng. Sớm hoàn thành và đưa vào sử dụng các dự án công trình mang lại sản phẩm lớn cho xã hội như điện, xi măng, thép... 
          Thứ 7, Thủ tướng đề nghị các bộ, ngành rà soát các chương trình, chính sách hỗ trợ người có thu nhập thấp, người nghèo để tiếp tục hỗ trợ tích cực các đối tượng này nhằm đảm bảo an sinh xã hội trong tình hình giá cả tăng cao. 
          Thứ 8, Thủ tướng đề cập đến việc cung cấp thông tin, tuyên truyền phải tạo sự nhất trí, đồng thuận, cùng nhau chung sức hợp tác chặt chẽ vượt qua khó khăn, thực hiện đồng bộ và quyết liệt các giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và tốc độ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh khó khăn toàn cầu.
         Theo chương trình phiên họp, trong hai ngày tới, Chính phủ sẽ nghe và cho ý kiến về Báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước năm 2006, Đề án Chương trình mục tiêu Quốc gia về môi trường và đối phó với việc biến đổi khí hậu, dự thảo Nghị định về Chính sách khuyến khích phát triển xã hội hóa cùng nhiều dự án Luật quan trọng khác như dự án Luật Công nghệ cao, Luật Thi hành án Dân sự; các dự án Luật sửa đổi Luật Phòng, chống ma tuý, Luật Thi đua khen thưởng, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Giao thông đường bộ, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Quốc tịch, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam./.
St của Thành Chung


Chủ Nhật, 13 tháng 5, 2012

Chương 11: GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP.


11.1.  NHỮNG HÌNH THỨC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI TRONG LỊCH SỬ
Xã hội tồn tại và phát triển được là nhờ vào sự tồn tại của con người và quan hệ giữa con người với nhau. Chính những hình thức quan hệ giữa người với người đã tạo ra hình thức cộng đồng người khác nhau. Sự biến đổi từ hình thức thị tộc, bộ lạc, bộ tộc và dân tộc đã phản ánh sự phát triển của xã hội.

11.1.1. Thị tộc :
Thị tộc là hình thức cộng đồng đầu tiên, đồng thời là một tổ chức xã hội đầu tiên của con người. Theo Ăng ghen, thị tộc là một thiết chế chung cho tất cả dân dã man, cho đến khi họ bước vào thời đại văn minh, và thậm chí còn sau hơn nữa.
Thị tộc gồm khoảng vài trăm người. Do trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển, nguồn sống chủ yếu dựa vào chăn nuôi và  trồng trọt, nên vai trò của người phụ nữ đặc biệt quan trọng. Chế độ quần hôn thời kỳ đầu và địa vị độc tôn của người phụ nữ là cơ sở hình thành hình thức thị tộc mẫu quyền đầu tiên trong lịch sử. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đẩy vai trò của người phụ nữ khỏi vị trí độc tôn, người đàn ông dần chiếm vị trí lớn nhất trong thị tộc.
 Hình thức thị tộc mẫu quyền được thay thế bằng hình thức thị tộc phụ quyền. Thị tộc là hình thức cộng đồng đầu tiên trong lịch sử. Thị tộc có đặc trưng chung về huyết thống, các thành viên trong thị tộc đều có chung một tổ tiên sinh ra. Ngoài ra, cộng đồng thị tộc có những mối liên hệ cộng đồng sau đây:
Các thành viên cộng đồng có chung một tiếng nói (mặc dù ngôn ngữ thị tộc còn rất đơn giản).
      + Mỗi thị tộc có những tập tục, tập quán, nghi thức tín ngưỡng riêng của mình. Có yếu
tố văn hoá nguyên thuỷ mang sắc thái riêng của cộng đồng.
      + Mỗi thị tộc có khu vực cư trú riêng, vùng săn bắt và tên gọi riêng.
      + Cơ sở kinh tế của thị tộc là quyền sở hữu chung về tư liệu sản xuất và tài sản. Họ cùng lao động và cùng hưởng thụ một cách bình đẳng.
Tổ chức xã hội: Lãnh đạo thị tộc là một hội đồng thị tộc đứng đầu là tộc trưởng được mọi
người bầu ra. Việc quản lý điều hành của thị tộc dựa  trên nghị quyết của hội nghị thị tộc. Tộc
trưởng được các thành viên tôn kính và chấp hành sự điều khiển của tộc trưởng một cách tự nhiên.
11.1.2. Bộ lạc :
Bộ lạc được hình thành từ nhiều thị tộc có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn  nhân liên kết với nhau. Trong bộ lạc có một thị tộc gốc tạo thành bộ lạc được gọi là bào tộc. Bộ tộc đã có sự phát triển về số lượng so với thị tộc, có bộ tộc đông đến hàng vạn người. 
Bộ lạc có những đặc trưng cơ bản sau:
            Mỗi bộ lạc cũng có tên gọi riêng, có cùng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, văn hoá, tín
ngưỡng (Những yếu tố trên phong phú, đa dạng hơn so với thị tộc). Mặc dù chưa có sự ổn định
thực sự nhưng việc xác lập chủ quyền về mặt lãnh thổ là đặc trưng mới của bộ lạc so với thị tộc.
Bộ lạc cùng chung sống trên một vùng lãnh thổ.
Về hình thức sở hữu cũng có sự phát triển. Ngoài sở hữu riêng của mỗi thị tộc, bộ lạc còn
có những hình thức sở hữu khác như: vùng lãnh thổ, nơi trồng trọt, săn bắn, chăn nuôi…
Về hình thức xã hội: Đứng đầu bộ lạc là hội đồng các tộc trưởng của các thị tộc trong bộ
lạc. Các vấn đề về quản lý và điều hành bộ lạc là do hội đồng các tộc trưởng và thủ lĩnh quân sự
quyết định… Trong bộ lạc có một thủ lĩnh tối cao, nhưng quyền hành rất hạn chế. Bộ lạc phát
triển tới hình thức cao nhất là liên minh các bộ lạc.
Khi loài người tồn tại trong xã hội nguyên thuỷ, thì bộ lạc là hình thức tốt nhất để phát triển
sản xuất. Chính trong thời kỳ này đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất:
với việc xuất hiện  công cụ lao động bằng kim loại, năng suất lao động tăng lên dẫn đến hình thức
phân công lao động xã hội đầu tiên giữa trồng trọt và chăn nuôi, giữa nông nghiệp và thủ công
nghiệp…Đó là một trong những tiền đề xuất hiện sở hữu tư nhân, sự bất bình đẳng về tài sản, sự
phân chia giai cấp trong xã hội. Điều đó đưa xã hội công xã nguyên thuỷ đến chỗ tan rã thay vào
đó là một xã hội có giai cấp. Sự thay đổi của hình thái kinh tế - xã hội nói trên đã đưa hình thức
cộng đồng người đến chỗ thay đổi: từ bộ lạc chuyển lên hình thái cộng đồng bộ tộc.
11.1.3. Bộ tộc :
Bộ tộc là cộng đồng người đông đảo hơn bộ lạc. Đây là cộng đồng dân cư được hình thành
từ sự liên kết của nhiều bộ lạc và liên minh các bộ lạc trên cùng một vùng lãnh thổ nhất định. Từ
sự liên kết, liên minh giữa các bộ lạc mà làm cho bộ tộc không còn đơn thuần là cộng đồng người
có cùng huyết thống. Ăng ghen đã chỉ rõ: “Do việc mua bán ruộng đất, do sự phát triển hơn nữa
của sự phân công lao động giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp, giữa thương nghiệp và hàng hải,
và những thành viên của các thị tộc, bào tộc và bộ lạc chẳng bao lâu đã phải sống lẫn lộn với
nhau, và lãnh thổ của bào tộc và của bộ lạc đã phải thu nhận những người tuy là đồng bào nhưng
lại không thuộc các tập đoàn ấy, tức là những người lạ xét về nơi ở”.
Như vậy, khác với bộ lạc và thị tộc, bộ tộc có vùng lãnh thổ tương đối ổn định, dân cư đa
dạng, sống xen kẽ, đa ngôn ngữ và đa văn hoá. Trong đó ngôn ngữ của bộ lạc nào chiếm vị trí trung tâm của sự giao lưu và phát triển kinh tế sẽ trở thành ngôn ngữ chung của cả bộ tộc. Tuy nhiên, mỗi bộ tộc cũng có tên gọi riêng, đặc điểm về kinh tế và văn hoá riêng.
Xét trong tiến trình lịch sử nhân loại thời kỳ hình thành bộ tộc là mốc đánh dấu sự tan rã
hoàn toàn của xã hội công xã nguyên thuỷ. Sở hữu tập thể của thị tộc, bộ lạc được thay thế bằng
hình thức sở hữu tư nhân và chế độ tư hữu, xã hội có giai cấp xuất hiện. Khi đó xuất hiện tổ chức
chính trị - xã hội trong xã hội có giai cấp là nhà nước.
Tuy nhiên, phạm vi thống trị của nhà nước có thể không trùng với bộ tộc. Có nhà nước một
bộ tộc, có nhà nước nhiều bộ tộc, sắc tộc.
Sự xuất hiện của nhà nước đã góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã
hội… thúc đẩy quá trình thống nhất về kinh tế và văn hoá, mở rộng giao lưu giữa các bộ tộc…Sự
phát triển mới về kinh tế, văn hoá, xã hội, sự phát triển của lực lượng sản xuất  đã tạo những
nguyên nhân thúc đẩy sự hình thành một cộng đồng người mới cao hơn bộ tộc, đó là dân tộc.
11.1.4. Dân tộc:
Khi sử dụng khái niệm dân tộc cần có sự lưu ý: ở Việt Nam, khái niệm dân tộc thường được dùng để chỉ tất cả các hình thức cộng đồng người (bộ lạc, bộ tộc, dân tộc), như vậy “dân tộc” được dùng theo nghĩa rộng. Các “dân tộc" ở đây theo nghĩa khoa học: nó là hình thức cộng đồng người cao hơn các hình thức cộng đồng người trước đó, thị tộc, bộ lạc, bộ tộc.
Cũng như bộ tộc, dân tộc là hình thức cộng đồng người gắn liền với xã hội có giai cấp, có
các thể chế chính trị và nhà nước. Sự hình thành dân tộc rất đa dạng: có dân tộc được hình thành
từ một bộ tộc phát triển lên, nhưng đa số dân tộc được hình thành trên cơ sở nhiều bộ tộc và tộc
người hợp nhất lại. Việc hình thành dân tộc từ các hình thức cộng đồng người trước dân tộc phát
triển lên dân tộc là một quá trình có tính chất liên tục vừa là bước nhảy vọt.
Dân tộc khác với bộ tộc ở chỗ: nếu trong bộ tộc các cộng đồng dân cư liên kết với nhau
nhưng dựa trên những nguyên tắc pháp lý chưa thực sự là cộng đồng dân cư ổn định và bền vững
thì ngược lại dân tộc là một cộng đồng dân cư ổn định và tương đối bền vững có tính thống nhất
cao, dựa trên những nguyên tắc pháp lý. Những mối liên hệ đó được dựa trên một cơ sở mới, đó là
mối liên hệ kinh tế trong một trị trường thống nhất, rộng lớn: trị trường dân tộc. Sự thống nhất về
kinh tế của dân tộc được củng cố bằng thiết chế chính trị mới đó là các nhà nước tập quyền.
Dân tộc là một cộng đồng người có những đặc điểm chung thống nhất sau đây:
- Một là, cộng đồng về kinh tế.
 Từ cộng đồng thị tộc chuyển lên bộ lạc rồi bộ tộc, quá trình đó làm cho yếu tố liên kết cộng
đồng dựa trên quan hệ huyết thống dần dần bị suy giảm, vai trò của yếu tố kinh tế ngày càng tăng
lên. Với dân tộc, cộng đồng chung về kinh tế là nhân tố đảm bảo cho sự tồn tại và thống nhất của
mỗi quốc gia dân tộc.
Các Mác và Ăng ghen đã chứng minh rằng: kinh tế chính trị là yếu tố trở thành động lực gắn kết các dân tộc thành một nước, một quốc gia thống nhất. Sự tương đồng về mặt lợi ích sẽ là điểm chung cho quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau. Lịch sử phát triển của các dân tộc cho thấy, sự tương đồng và phù hợp với lợi ích càng lớn, tính thống nhất của dân tộc càng cao, sự đối lập về lợi ích giữa các bộ tộc dân tộc càng cao, nguy cơ tan rã dân tộc càng lớn.
Tính thống nhất, tương đồng và ổn định về kinh tế là yếu tố gia tăng quan hệ về ngôn ngữ,
lãnh thổ, văn hoá, tâm lý, tính cách, nó là nhân tố đảm bảo cho sự thống nhất của mỗi quốc gia,
dân tộc.
- Thứ hai, cộng đồng về lãnh thổ.
Mỗi dân tộc sinh sống trên một vùng lãnh thổ riêng, đó là biểu hiện cụ thể về mặt chủ quyền của một dân tộc trong mối quan hệ với các quốc gia, dân tộc khác. Khái niệm lãnh thổ bao gồm cả vùng đất, vùng biển hải đảo, vùng trời thuộc chủ quyền của quốc dân tộc.
Với mỗi quốc gia nhiều dân tộc thì lãnh thổ quốc gia gồm lãnh thổ của tất cả các dân tộc
thuộc quốc gia đó hợp thành. Chủ quyền quốc gia dân tộc thuộc về lãnh thổ là kết quả lao động, xây dựng của cả một dân tộc trong quá trình lịch sử lâu dài. Chủ quyền quốc gia dân tộc về lãnh
thổ không thể chia cắt, nó được thể chế hóa luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế.
Cộng đồng lãnh thổ là đặc trưng quan trọng của dân tộc. Lãnh thổ là địa bàn sinh sống và phát triển của dân tộc, nó là nền tảng hình thành nên Tổ quốc của mỗi quốc gia, dân tộc.
- Thứ ba, cộng đồng về ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là công cụ, phương tiện quan trọng nhất trong giao tiếp trong cộng đồng (thị tộc,
bộ lạc, bộ tộc, dân tộc). Mỗi một dân tộc có một ngôn ngữ riêng của dân tộc mình (có thể cả chữ
viết và tiếng nói) để giao tiếp trong dân tộc. Nhưng trong một quốc gia có nhiều dân tộc phải có
ngôn ngữ chung thống nhất. Ngôn ngữ được chọn làm ngôn ngữ thống nhất thường là sản phẩm
và là kết quả tất yếu của quá trình phát triển lâu dài về kinh tế - xã hội của các dân tộc trong quốc
gia. Ngôn ngữ chung của một dân tộc (tiếng mẹ đẻ) là đặc trưng bản chất và là nhân tố kết nối các
dân tộc thành một quốc gia có chủ quyền. Ngôn ngữ dân tộc là cơ sở, nền tảng của văn hóa là di
sản tinh thần của mỗi dân tộc.
-Thứ tư, cộng đồng về văn hóa, tâm lý, tính cách:  
Văn hoá là yếu tố đặc biệt quan trọng của sự liên kết cộng đồng. Văn hóa dân tộc mang
nhiều sắc thái của văn hóa các địa phương, các sắc tộc, các tập đoàn người trên cùng một vùng
lãnh thổ. Đặc trưng chung của văn hóa dân tộc là sự thống nhất trong tính đa dạng. Văn hoá dân
tộc hình thành trong suốt quá trình lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc đó, nó được kế thừa
chắt lọc qua mỗi giai đoạn lịch sử. Trong quá trình phát triển của dân tộc, các thành viên của dân
tộc một mặt giữ gìn, phát huy bản sắc riêng của dân tộc, một mặt tiếp thu các giá trị văn hóa và
tham gia vào quá trình sáng tạo ra giá trị văn hóa chung của dân tộc.
Trong xã hội có giai cấp, do điều kiện sống khác nhau nên giai cấp thống trị và giai cấp bị
trị có quan niệm khác nhau về văn hóa, giá trị văn hóa tạo nên các yếu tố văn hóa khác nhau, song
vẫn bị chi phối bởi những yếu tố văn hóa chung của cả cộng đồng.
Giao lưu văn hóa, chính là quá trình các dân tộc tự thể hiện mình, tự bảo vệ mình trong tiến
trình phát triển văn hóa dân tộc. Trên điều kiện sinh hoạt vật chất điều kiện địa lý, dân cư trên nền tảng văn hóa dân tộc mà mỗi dân tộc có tâm lý lối sống và nét tính cách riêng. Nó là nét đặc thù không trộn lẫn của một dân tộc.
Như vậy, bốn đặc trưng: cộng đồng về kinh tế, cộng đồng về lãnh thổ, cộng đồng về ngôn
ngữ về văn hóa, tâm lý, tính cách là bốn đặc trưng không thể thiếu được của mỗi dân tộc. Tuy
nhiên, dân tộc không phải là phép cộng giản đơn của bốn đặc trưng - bốn mối quan hệ cộng đồng
trên mà chính là kết hợp một cách biện chứng các mối quan hệ ấy. Nó vừa kết nối dân tộc thành
một khối vừa tạo ra động lực để liên kết và phát triển cho mỗi quốc gia dân tộc. Các Mác và Ăng
ghen tập trung chú ý vào sự hình thành các quốc gia dân tộc ở châu Âu, vì đó là quá trình điển
hình. Hai ông đã chỉ rõ quá trình hình thành dân tộc hiện đại thường gắn với quá trình hình thành
và phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Để hiểu khái niệm dân tộc một cách đầy đủ, cũng cần nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển dân tộc không gắn liền với chủ nghĩa tư bản như sự hình thành dân tộc Việt Nam, Triều Tiên. Ở Việt Nam, dân tộc được hình thành sớm hơn do điều kiện chống xâm lược và chống thiên nhiên.
Hình thức cộng đồng có vai trò to lớn đối với sự phát triển con người và xã hội. Dân tộc
không chỉ là sản phẩm của sự phát triển kinh tế văn hóa, mà còn là động lực cho sự phát triển.
Trong tương lai của loài người, dân tộc sẽ tồn tại lâu dài ngay cả khi các giai cấp đã mất đi. Do
vậy, đấu tranh chống lại sự nô dịch và áp bức dân tộc chính là đấu tranh vì sự phát triển và tiến bộ
chung của nhân loại.
11.2.  GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP
Lịch sử xã hội loài người từ khi phân chia giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp. Chính đấu
tranh giai cấp đã làm biến đổi quan hệ giữa người với người. Vậy giai cấp là gì? điều kiện tồn tại
của nó là gì? vì sao có đấu tranh giai cấp? đấu tranh giai cấp có vai trò như thế nào? Trong quá
khứ, hiện tại và tương lai? Đó là chìa khoá để khám phá các qui luật lịch sử, hiểu lịch sử của xã
hội có giai cấp.
11.2.1. Giai cấp: định nghĩa, nguồn gốc, kết cấu
11.2.1.1. Định nghĩa giai cấp
Tình trạng phân chia giai cấp đã được nhiều nhà kinh tế, sử học phát hiện ra. Đó là các giai
cấp đối lập nhau trong các xã hội chiếm hữu nô lệ có chủ nô và nô lệ, xã hội phong kiến có phong
kiến và nông nô, xã hội cận và hiện đại có tư sản và vô sản. Ngoài các giai cấp trên còn có các
tầng lớp, nhóm xã hội gắn với hệ thống giai cấp này hay hệ thống giai cấp khác. Nhưng vấn đề
quan trọng là phải làm rõ “giai cấp là gì?” thì các lý thuyết xã hội phi Mác Xít chỉ đưa ra những
quan niệm mơ hồ. Họ lý giải giai cấp là tập hợp người có sự khác nhau về nghề nghiệp, chủng tộc,
tài năng, tri thức đạo đức, uy tín xã hội… Thậm chí giống nhau về sở thích cá nhân. Các lý thuyết
đó dựa trên tiêu chuẩn chủ quan thay thế cho tiêu chuẩn khách quan, họ tránh đụng đến các vấn đề
cơ bản, đặc biệt là vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
Các Mác đi nghiên cứu về giai cấp từ việc phân tích kết cấu phương thức sản xuất đã có
cách tiếp cận khoa học: lấy lý luận về hình thái kinh tế - xã hội làm cơ sở nghiên cứu xã hội. Mác
đã đi tìm cái gốc của cơ cấu xã hội, cơ cấu giai cấp đó là kinh tế. C.Mác không đưa ra định nghĩa
hoàn chỉnh về giai cấp, nhưng trong thư gửi Vâyđơmaye đã thể hiện tư tưởng về giai cấp:
1.  Sự phát triển của các giai cấp chỉ gắn liền  với những giai đoạn lịch sử nhất định của sự
phát triển sản xuất.
2. Đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản.
3. Bản thân sự chuyển dịch này chỉ là bước quá độ tiến tới xoá bỏ mọi giai cấp và tiến lên  xây dựng xã hội không có giai cấp.
Trên cơ sở lý luận của Các Mác, trong tác phẩm SÁNG KIẾN VĨ ĐẠI, V.I Lênin đã đưa ra
định nghĩa giai cấp:  “Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật qui định và thừa nhận đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định”.
Như vậy, giai cấp là những tập đoàn người to lớn có địa vị xã hội khác nhau trong một hệ
thống kinh tế - xã hội nhất định. Tức là nói đến vị trí, chỗ đứng của các tập đoàn người khác nhau
trong hệ thống thứ bậc xã hội. Điều này chỉ rõ không phải giai cấp tồn tại ở mọi hình thái kinh tế -
xã hội, giai cấp chỉ nảy sinh, tồn tại ở những hình thái kinh tế xã hội đáp ứng được điều kiện tồn
tại của nó. Địa vị xã hội của mỗi giai cấp là tổng hợp những điều kiện vật chất cơ bản của cả tập
đoàn người do hệ thống sản xuất vật chất cña xã hội qui định. Địa vị xã hội của tập đoàn người
này bị qui định bởi địa vị tập đoàn người khác trong xã hội.
Trong hệ thống kinh tế - xã hội, nếu tập đoàn người này là giai cấp thống trị thì tập đoàn
người kia là giai cấp bị trị. Đó là các giai cấp. Những cá nhân có địa vị xã hội như nhau trong hệ
thống sản xuất xã hội thì hợp thành một giai cấp. Đây là đặc trưng chung nhất của giai cấp.
Sự khác nhau về địa vị của các giai cấp trong hệ thống sản xuất là do :
- Thứ nhất, quan hệ khác nhau đối với tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
Đây là đặc trưng cơ bản nhất, là tiêu chuẩn khách quan để phân định giai cấp, để xếp một cá
nhân vào giai cấp này hay giai cấp khác. Quan hệ khác nhau đối với tư liệu sản xuất là điểm khác
nhau cơ bản nhất: chủ nô (trong chế độ nô lê), địa chủ phong kiến (trong chế độ phong kiến), tư
sản (trong chế độ tư bản) là những tập đoàn giữ vị trí thống trị trong hệ thống kinh tế - xã hội mà
họ là đại biểu, trước hết là do các tập đoàn người này chiếm hữu tư liệu sản xuất của xã hội, tức là
nắm những điều kiện vật chất quan trọng để chi phối quá trình sản xuất của xã hội, qua chi phối
lao động của những tập đoàn người không có hoặc nắm rất ít tư liệu  sản xuất. Những tập đoàn
người bị mất tư liệu sản xuất (nô lệ trong chế độ nô lệ, nông dân trong chế độ phong kiến, vô sản
trong chế độ tư bản) phải phụ thuộc về kinh tế vào các tập đoàn người thống trị.
Khi nghiên cứu về đặc trưng này cần lưu ý :
   + Quyền sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thường được pháp luật của nhà nước
công nhận và bảo vệ.
   + Khi nghiên cứu các hiện tượng của xã hội có giai cấp phải lột tả được quan hệ về sở hữu
tư liệu sản xuất. Muốn xoá bỏ giai cấp phải xoá bỏ tận gốc sự tồn tại của giai cấp: xoá bỏ quyền
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
- Thứ hai, khác nhau về vai trò trong tổ chức lao động xã hội, trong tổ chức quản lý sản xuất.
Tập đoàn người nào nắm tư liệu sản xuất sẽ điều khiển quá trình lao động xã hội, để đem lại
lợi ích nhiều nhất cho tập đoàn mình thông qua quá trình chỉ huy sản xuất, lãnh đạo quá trình sản
xuất, điều hành lưu thông trên qui mô toàn xã hội. Còn các tập đoàn người không có hoặc nắm rất
ít tư liệu sản xuất là những tập đoàn người trực tiếp lao động, sản xuất dưới sự điều khiển trực tiếp
của giai cấp thống trị.
- Thứ ba, khác nhau về phương thức và qui mô thu nhập những sản phẩm lao động của xã hội.
   Phương thức và qui mô thu nhập của các giai cấp phụ thuộc vào chế độ sở hữu tư liệu sản
xuất. Là người nắm tư liệu sản xuất và tổ chức lãnh đạo sản xuất, tập đoàn thống trị có đủ điều
kiện để biến mục đích của mình thành hiện thực đó là chiếm lao động thặng dư của các tập đoàn
lao động. Do có sự bất công trong sở hữu nên chế độ phân phối trong xã hội có đối kháng giai cấp
là bất công vì nó đảm bảo cho giai cấp thống trị, bóc lột chiếm phần lớn sản phẩm lao động trong
xã hội, còn các tập đoàn lao động chỉ chiếm phần ít ỏi sản phẩm lao động dưới hình thức này hay
hình thức khác.
Ngày nay, dưới chủ nghĩa tư bản, một bộ phận trong giai cấp công nhân có mức sống cao
hơn so với trước đây. Tuy nhiên, sự nâng cao mức sống của giai cấp công nhân không tương xứng
với sự tăng lên nhanh chóng của năng suốt lao động, càng không theo kịp với sự giàu có của giai
cấp tư sản. Khoảng cách thu nhập giữa hai giai cấp đối kháng ngày càng rộng hơn.
Tóm lại, bản chất của quan hệ giai cấp là sự khác nhau giữa các tập đoàn người về địa vị
trong hệ thống sản xuất xã hội, dẫn đến tập đoàn người này chiếm đoạt lao động của tập đoàn
người khác. Giai cấp là một phạm trù kinh tế - xã hội có tính lịch sử.
11.2.1.2. Nguồn gốc giai cấp
Xã hội loài người không phải lúc nào cũng có các giai cấp đối kháng. Các Mác đã chứng
minh rằng : “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất
định của sản xuất”
Trong xã hội nguyên thuỷ, khi lực lượng sản xuất còn thấp kém, công cụ sản xuất thô sơ
như cành cây, hòn đá, cung tên… con người chỉ sản xuất đủ để tồn tại, duy trì nòi giống, chưa có
sản phẩm dư thừa tương đối thì chưa xuất hiện khả năng chiếm đoạt, xã hội chưa có giai cấp. Con
người thời kỳ này phải nương tựa vào nhau theo bầy đàn, quan hệ bình đẳng : cùng hợp tác sản
xuất, cùng hưởng thụ.
Khi công cụ sản xuất phát triển lên một bước mới - công cụ sản xuất bằng kim loại xuất
hiện làm cho sản xuất phát triển, năng suất lao động tăng lên. Ngoài việc con người sản xuất ra
một lượng của cải vật chất đủ dùng (tối thiểu) còn một số dự trữ (gọi là của dư tương đối), làm
xuất hiện khả năng chiếm đoạt của dư đó, tức là xuất hiện khả năng người này chiếm đoạt lao
động của người khác. Việc xuất hiện công cụ sản xuất mới cho phép sản xuất cá thể  ở từng gia
đình có hiệu quả hơn so với sản xuất tập trung tập thể nguyên thủy. Lực lượng sản xuất phát triển
dẫn đến sự phân công lao động xã hội thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Trao đổi sản phẩm
diễn ra thường xuyên hơn. Quan hệ sản xuất cộng đồng nguyên thủy không còn phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong xã hội xuất hiện càng nhiều gia đình có tài sản riêng,
xuất hiện sự chênh lệch về tài sản. Chế độ công hữu nguyên thủy về tư liệu sản xuất dần bị thay
thế bằng chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
Trong điều kiện ấy, những người có quyền lợi trong thị tộc, bộ lạc chiếm đoạt tài sản của
công xã thành của riêng, nắm quyền phân công lao động và phân phối sản phẩm, trở thành giai
cấp thống trị đầu tiên : giai cấp chủ nô.                                                   
Do của cải dư thừa, tù binh bắt được trong các cuộc chiến tranh không bị giết như trước. Họ được sử dụng phục vụ những người giàu có và có địa vị trong xã hội. Chế độ có giai cấp chính
thức ra đời từ đó. Lực lượng nô lệ được bổ sung bằng những người làm ăn thua lỗ, nợ không trả
được và họ trở thành giai cấp bị trị đầu tiên trong lịch sử.
Xã hội chiếm hữu nô lệ là xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử. Chủ nô và nô lệ là hai
giai cấp đối kháng trong xã hội này.
Như vậy, sự xuất hiện giai cấp gắn liền với nguồn gốc kinh tế của dư tương đối là khả năng
khách quan, chế độ tư hữu tư liệu sản xuất là cơ sở trực tiếp của xuất hiện giai cấp.
Sự tồn tại các giai cấp đối kháng gắn liền với chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến và
chế độ tư bản chủ nghĩa. Chế độ tư hữu tồn tại hàng ngàn năm trong điều kiện cơ bản: lực lượng sản xuất phát triển cao, đã tạo ra sản phẩm thặng dư nhưng chưa đạt tới mức thoả mãn nhu cầu vật chất  của con người. Sự phát triển rất cao của lực lượng  sản xuất sẽ làm cho mất đi của giai cấp mang tính tất yếu nhưng lực lượng sản xuất không là điều kiện duy nhất cho sự mất đi của giai cấp mà còn phải có sự phát triển cao và toàn diện của con người.
11.2.1.3. Kết cấu xã hội - giai cấp
Trong xã hội có giai cấp, kết cấu giai cấp là do phương thức sản xuất quyết định. Mỗi kiểu xã hội có một kết cấu xã hội - giai cấp riêng của nó. Mỗi kết cấu xã hội - giai cấp của xã hội nhất định bao gồm hai giai cấp cơ bản, các giai cấp không cơ bản và tầng lớp trung gian. Hai giai cấp cơ bản là các giai cấp tồn tại gắn liền với phương thức sản xuất thống trị. Hai giai cấp cơ bản của chế độ kinh tế xã hội là sản phẩm đích thực của chế độ kinh tế - xã hội, đồng thời là những giai cấp quyết định sự tồn tại và phát triển của hệ thống sản xuất trong xã hội. Giai cấp thống trị là giai cấp tiêu biểu cho bản chất chế độ kinh tế đang tồn tại.
Trong xã hội có giai cấp gồm có các giai cấp cơ bản sau:
-                          Chủ nô và nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ phong kiến và nông nô (nông dân) trong chế độ phong kiến,
-                          vô sản và tư sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa.
Mỗi kết cấu xã hội - giai cấp còn có các giai cấp không cơ bản và tầng lớp trung gian. Trong những tập đoàn xã hội này có những tập đoàn là tàn dư của phương thức sản xuất cũ (như nô lệ trong thời kỳ đầu của xã hội phong kiến, địa chủ và nông nô trong buổi đầu của xã hội tư bản). Cũng có tập đoàn là mầm mống của phương thức sản xuất tương lai (như giai cấp tư sản và công nhân công trường thủ công trong giai đoạn cuối của chế độ phong kiến).
Ngoài ra trong bất kỳ xã hội có giai cấp nào cũng có một số tầng lớp trung gian là sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang thống trị, là kết quả của quá trình phân hoá trong xã hội diễn ra một cách liên tục. Đó là các tầng lớp bình dân trong xã hội nô lệ, các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông thôn trong xã hội tư bản. Một bộ phận có vai trò quan trọng trong xã hội có giai cấp trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị đó là tầng lớp trí thức.
11.2.2. Đấu tranh giai cấp và vai trò của nó trong sự phát triển của xã hội có giai cấp
11.2.2.1. Đấu tranh giai cấp và nguyên nhân của đấu tranh giai cấp
       * Đấu tranh giai cấp?
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị tiến hành chiếm đoạt lao động của các giai cấp
và tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải xã hội vào tay giai cấp mình. Ngược lại, các giai cấp và tầng
lớp bị trị không những bị chiếm đoạt lao động mà còn bị áp bức về chính trị xã hội và tinh thần.
Sự bất bình đẳng giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị phát triển cao. Sự bất bình đẳng đó tất
yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp. V.I Lênin đã định nghĩa đấu tranh giai cấp: “là cuộc đấu tranh của
một bộ phận nhân dân này chống lại một bộ phận nhân dân khác, cuộc đấu tranh của quần chúng
bị tước hết quyền bị áp bức và lao động chống lại bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn
bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những
người hữu sản hay giai cấp tư sản”
Thực chất của đấu tranh giai cấp: là cuộc đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích
giữa quần chúng bị áp bức, vô sản làm thuê chống lại giai cấp thống trị, bóc lột để giải phóng lao
động, làm cho sản xuất phát triển.
 * Nguyên nhân của đấu tranh giai cấp.
Đấu tranh giai cấp có nguyên nhân khách quan: từ chính sự phát triển thường xuyên liên tục của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất đạt tới trình độ xã hội hoá ngày càng cao, mâu
thuẫn với  quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn đó ngày càng
phát triển. Để lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển để sản xuất xã hội phát triển cần phải xoá bỏ
quan hệ sản xuất cũ, thay vào đó là quan hệ sản xuất tiến bộ hơn.
Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện về phương diện xã hội là
mâu thuẫn giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống trị. Đó là mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp tiến bộ cách mạng, đại diện cho phương thức sản xuất mới với một bên là giai cấp thống trị, bóc lột đại biểu cho những lợi ích gắn với quan hệ sản xuất, phương thức sản xuất lỗi thời, lạc hậu. Đó chính là mâu thuẫn giữa hai giai cấp cơ bản đối lập trong một phương thức, không thể điều hoà được vì lợi ích kinh tế cơ bản đối lập nhau (Hai mặt đối lập trong một sự vật tất yếu dẫn đến đấu tranh với nhau).
Dưới góc độ chính trị - xã hội: giai cấp thống trị luôn tìm mọi cách củng cố địa vị thống trị của mình, giai cấp bị trị luôn tìm mọi cách giải phóng mình. Đấu tranh giai cấp là tất yếu.
Lưu ý:
 Đấu tranh giai cấp là nói đến đấu tranh của tập đoàn này chống lại tập đoàn khác.
Những cuộc  đấu tranh lẻ tẻ của cá nhân thuộc giai cấp này chống cá nhân một giai cấp khác
không được gọi là đấu tranh giai cấp. Ví dụ: cá nhân một công nhân đập phá máy móc, giết chủ tư
sản, trốn khỏi nhà máy không được coi là đấu tranh giai cấp.
11.2.2.2. Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực thúc đẩy xã hội có giai cấp phát triển
 Khẳng định như vậy vì:
Đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực thúc đẩy sự vật phát triển mà đấu
tranh giai cấp là đấu tranh giữa hai mặt đối lập cơ bản của xã hội có giai cấp. Đấu tranh giai cấp là
biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, qua đấu tranh
giai cấp mới giải quyết được mâu thuẫn đó làm cho lực lượng sản xuất phát triển, qua đó thúc đẩy
xã hội có giai cấp phát triển.
Mặt khác có thể thấy tồn tại xã hội cần có điều kiện tự nhiên, điều kiện dân số và phương
thức sản xuất. Trong đó phương thức sản xuất có vai trò quyết định nhất. Trong phương thức sản
xuất có lực lượng sản xuất thường xuyên biến đổi còn quan hệ sản xuất tương đối ổn định. Mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện về mặt xã hội trong xã hội có giai cấp
là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa hai giai
cấp đối lập giải quyết mâu thuẫn của phương thức sản xuất, qua đó làm cho xã hội có giai cấp
phát triển.
Biểu hiện: Đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là tất yếu dẫn đến cách mạng xã hội. Khi cách
mạng xã hội nổ ra quan hệ sản xuất cũ bị thay thế bằng quan hệ sản xuất mới, phương thức sản
xuất cũ mất đi thay vào đó là phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn, mở đường  cho sự phát triển
sản xuất xã hội. Sản xuất xã hội phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội.
Đấu tranh giai cấp lật đổ chính quyền cũ, xác lập chính quyền mới, cùng với quá trình  đó cơ cấu
xã hội giai cấp cũ bị xoá bỏ, cơ cấu xã hội mới hình thành làm cho xã hội có giai cấp phát triển.
Như vậy, cách mạng xã hội là đòn bẩy thúc đẩy sự thay đổi từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng của xã hội. Đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp của xã hội có giai cấp đưa xã hội phát triển từ thấp lên cao.
Đấu tranh giai cấp góp phần xoá bỏ thế lực phản động, lạc hậu đồng thời còn có tác dụng
cải tạo bản thân các giai cấp cách mạng và quần chúng cách mạng. Qua đấu tranh giai cấp, các
giai cấp bị thống trị mới gột rửa được tinh thần nô lệ và những tập quán xấu do chế độ người áp
bức người tạo nên. Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới giai cấp đó sẽ lãnh đạo
cách mạng.
Đấu tranh giai cấp không chỉ là đòn bẩy của lịch sử trong thời kỳ cách mạng, mà còn là
động lực phát triển của xã hội ngay cả trong thời kỳ “hoà bình” của xã hội có giai cấp. Khi quan
hệ sản xuất còn phù hợp với lực lượng sản xuất, đấu tranh giai cấp vẫn có tác dụng thúc đẩy xã
hội phát triển mọi mặt. Thành tựu mà loài người đạt được trong tiến trình phát triển của lực lượng
sản xuất, cách mạng khoa học và công nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ xã hội…không tách
rời cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp tiến bộ chống lại giai cấp thống trị, các thế lực thù địch
phản động.
Vai trò của đấu tranh giai cấp trong lịch sử được phát huy như thế nào là tuỳ thuộc vào bản
chất, trình độ phát triển của các cuộc đấu tranh.
Lịch sử nhân loại đã cách mạng vai trò to lớn của đấu tranh giai cấp chống áp bức, bóc lột.
Thời cổ đại nếu không có các cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của nô lệ và tầng lớp bình dân
chống giai cấp chủ nô thì chế độ nô lệ dù đã thối nát cũng không thể sụp đổ. Xã hội phong kiến
phát triển đã tiếp tục dẫn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân, thợ thủ công, thương nhân, trí thức,
đặc biệt là giai cấp tư sản với giai cấp phong kiến. Mâu thuẫn đó đã dẫn đến việc bùng nổ các
cuộc cách mạng tư sản trong các thế kỷ XVI, XVII, XVIII, làm sụp đổ chế độ phong kiến, đưa xã
hội sang giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản
là cuộc đấu tranh cuối cùng trong lịch sử xã hội có giai cấp để tiến tới xây dựng xã hội không có
giai cấp.
Lưu ý:
Không được coi đấu tranh giai cấp là động lực duy nhất thúc đẩy xã hội có giai cấp
phát triển. Vì bên cạnh đấu tranh giai cấp, xã hội còn có các nhân tố thúc đẩy sự phát triển khác
như tiến bộ khoa học kỹ thuật, tư tưởng, đạo đức, nghệ thuật.
Muốn thúc đẩy xã hội có giai cấp phát triển tất yếu phải đấu tranh giai cấp, chống phủ nhận,
né tránh đấu tranh giai cấp, chống hoà bình chủ nghĩa.
11.2.2.3. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trong thời đại ngày nay
Trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới mở đầu bằng cuộc cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Giai cấp công nhân có sứ
mệnh lịch sử thủ tiêu chế độ tư hữu cuối cùng trong lịch sử thay vào đó là chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản có thể chia làm hai
giai đoạn:
- Khi chưa giành chính quyền, mục tiêu là đập tan chính quyền tư sản, giành chính quyền về
tay giai cấp công nhân. Hình thức đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển từ thấp đến cao.
Đấu tranh kinh tế là hình thức đầu tiên và thấp nhất, mục đích là bảo vệ lợi ích, quyền lợi hàng
ngày, hình thức này hạn chế ở chỗ nó diễn ra tự phát, cục bộ. Hình thức thứ hai là đấu tranh tư
tưởng với mục tiêu chống và đập tan hệ tư tưởng tư sản, vũ trang cho quần chúng nhân dân lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tuy nhiên, hình thức này chưa đập tan được chính quyền nhà
nước của giai cấp tư sản, xây dựng chính quyền công nông. Với việc tham gia vào nghị viện, cao
nhất là sử dụng bạo lực cách mạng. Đây là hình thức cao nhất, cơ bản để giành chính quyền.
- Sau khi có chính quyền, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân vẫn phải tiếp tục trong điều
kiện mới, với tính chất gay go, phức tạp. Mục tiêu đấu tranh của giai cấp công nhân cũng thay đổi,
từ mục tiêu tất cả để giành chính quyền chuyển sang mục tiêu cơ bản và chủ yếu là giữ vững
thành quả cách mạng: xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, tổ chức quản lý xã hội, đặc biệt
là quản lý và phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động, xây dựng xã hội mới: xã hội xã hội
chủ nghĩa.
Điều kiện, mục tiêu đấu tranh thay đổi dẫn đến hình thức đấu tranh cũng phải thay đổi. V.I
Lênin đã viết: “Trong điều kiện chuyên chính vô sản, những hình thức đấu tranh giai cấp của giai
cấp vô sản không thể giống như trước được" Trong điều kiện đã có chính quyền, giai cấp vô sản
phải sử dụng tổng hợp, linh hoạt các hình thức đấu tranh, trong đó có hoà bình và bạo lực, bằng
giáo dục kết hợp với thuyết phục, bằng pháp chế và hành chính. Sử dụng hình thức đấu tranh nào
tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Muốn đạt được mục tiêu xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội, muốn đảm bảo thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, thì giai cấp
công nhân phải xây dựng, củng cố và phát huy được khối liên minh giữa giai cấp công nhân –
nông dân và tầng lớp trí thức. Phải củng cố và tăng cường được sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân thông qua chính Đảng cộng sản.
Cuộc đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là cuộc đấu tranh lâu dài, gay go phức tạp đòi hỏi sự nỗ lực của giai cấp công nhân, nông dân và toàn thể nhân dân lao động.
11.2.2.4. Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cơ cấu giai cấp vốn tồn tại lâu dài
các giai cấp, các mâu thuẫn giai cấp. Đấu tranh giai cấp là một thực tế khách quan. Vấn đề không
phải là lảng tránh danh từ đấu tranh giai cấp, mà cơ bản là nhận thức đúng tính chất, đặc điểm, nội
dung và hình thức đấu tranh giai cấp để từ đó xây dựng các phương pháp xử lý tốt các quan hệ xã
hội - giai cấp.
Đấu tranh giai cấp ở Việt Nam diễn ra trong điều kiện mới: cơ cấu giai cấp, vị trí giai cấp
thay đổi dẫn đến quan hệ giữa các giai cấp cũng có sự thay đổi. Mục tiêu của đấu tranh giai cấp ở
Việt Nam: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Vì vậy, đấu tranh giai cấp ở Việt Nam diễn ra với nhiều hình thức nhưng nổi
bật lên là đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa một bên là quần chúng nhân dân lao động, các lực
lượng xã hội đi theo con đường dẫn tới mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, đoàn kết trong mặt trận thống nhất do Đảng cộng sản lãnh đạo với một bên là các
thế lực, các tổ chức, các phần tử chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Các thế lực phản
động trong nước cấu kết với các thế lực phản động quốc tế sử dụng “Âm mưu diễn biến hoà bình”
hòng thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với xã hội đi đến chỗ lật đổ chế độ xã hội.
Đấu tranh giai cấp ở nước  ta còn thể hiện ở “cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ
nghĩa và tư bản chủ nghĩa". Đó là cuộc đấu tranh giữa các nhân tố thúc đẩy đất nước đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa chống lại các nhân tố thúc đẩy đất nước chuyển dịch theo hướng tư bản
chủ nghĩa.
Cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay ở Việt Nam gắn liền với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập
dân tộc, chống áp bức bất công, chống nghèo nàn, lạc hậu. Cuộc đấu tranh đó diễn ra hàng ngày,
hàng giờ, diễn ra trên các tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết là lĩnh vực kinh tế và
lĩnh vực trật tự xã hội. Trong cơ cấu giai cấp - xã hội ở Việt Nam hiện nay, ngoài giai cấp công
nhân, nông dân và tầng lớp trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác, còn có bộ phận tư
sản, do đó, sẽ có mâu thuẫn giữa người lao động làm thuê với tầng lớp tư sản, còn có mâu thuẫn
giữa sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với khuynh hướng tự phát lên chủ nghĩa tư
bản của tư bản tư nhân.
Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động với tầng lớp tư sản tuy mang tính
chất là mâu thuẫn đối kháng giữa lao động và bóc lột, nhưng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta hiện nay lại là mâu thuẫn nội bộ nhân dân. Khẳng định điều đó vì: kinh tế tư bản
tư nhân là một thành phần kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần, tầng lớp tư sản có vai trò
quan trọng  thúc đẩy kinh tế phát triển. Họ có khả năng tham gia tích cực vào sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hiện nay, lợi ích hợp pháp của nhà tư sản thống nhất với lợi
ích của cộng đồng xã hội. Trong quan hệ giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp
tư sản là vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau.
Như vậy, nội dung đấu tranh giai cấp hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo,
kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn, khắc
phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, và hành
động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một
nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa
công nhân - nông dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ nặng nề và phức tạp,
lâu dài, do vậy, phải nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về quan điểm giai cấp. Tuyệt
đối hoá đấu tranh giai cấp, cường điệu đấu tranh giai cấp, né tránh, mơ hồ đấu tranh giai cấp đều
đi ngược lại quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, sẽ gây tổn hại đến thành quả của cách mạng.
11.3.  QUAN HỆ GIAI CẤP - DÂN TỘC - NHÂN LOẠI 
11.3.1. Quan hệ giai cấp - dân tộc 
Sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức
đòi hỏi phải nhận thức đúng đắn mối quan hệ giai cấp - dân tộc.
Giai cấp và dân tộc có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nhưng đó là những phạm trù chỉ các
quan hệ xã hội khác nhau, mỗi nhân tố có vai trò lịch sử của nó, dân tộc - giai cấp không thể thay
thế lẫn nhau.
Tách rời giai cấp và dân tộc hoặc đem qui mối quan hệ này vào mối quan hệ kia sẽ là sai lầm. Giai cấp và dân tộc sinh ra, mất đi không đồng thời. Trong lịch sử loài người, giai cấp ra đời
trước dân tộc hàng ngàn năm, nhưng khi giai cấp mất đi dân tộc vẫn tồn tại lâu dài. Quan hệ giai
cấp - với tư cách là sản phẩm trực tiếp của phương thức sản xuất trong xã hội có giai cấp - là nhân
tố xét đến cùng quyết định đối với sự hình thành dân tộc tư bản, xu hướng phát triển dân tộc,
quyết định bản chất xã hội của dân tộc, qui định tính chất của các quan hệ giữa các dân tộc.
Biểu hiện rõ nhất là từ sự xuất hiện của giai cấp tư sản, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, dẫn tới sự xuất hiện của các dân tộc hiện đại. Với sự hình thành một số dân tộc ở phương
Đông diễn ra trước chủ nghĩa tư bản thì vai trò này thuộc về tập đoàn xã hội đại diện cho phương
thức sản xuất tiên tiến đương thời - đó là tập đoàn phong kiến tiến bộ. 
Bản chất xã hội của dân tộc được qui định bởi phương thức sản xuất thống trị trong dân tộc,
bởi quan hệ giai cấp trong phương thức sản xuất đó. 
Mỗi giai đoạn phát triển cụ thể của lịch sử, giai cấp nào gắn với phương thức sản xuất thống trị, giai cấp đó trở thành lực lượng tiêu biểu và  lãnh đạo dân tộc. Giai cấp đứng đầu sẽ hướng dân tộc phát triển theo mẫu hình của nó. Giai cấp đó bằng mọi biện pháp quyết định hình thức phát triển của dân tộc. Hoạt động của giai cấp đó cũng ảnh hưởng đến nhịp độ phát triển của dân tộc.
Tuy nhiên giải quyết quan hệ giữa lợi ích của dân tộc cũng rất phức tạp. Trong các xã hội và các phương thức sản xuất tồn tại dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, lợi ích của giai cấp thống trị và lợi ích của dân tộc. Không phải lúc nào cũng thống nhất với nhau, thậm chí trái ngược nhau và đối lập với lợi ích dân tộc. Vì lợi ích giai cấp, trong nhiều trường hợp giai cấp thống trị bán rẻ lợi ích dân tộc. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, phương thức sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, khi ấy lợi ích của giai cấp công nhân về cơ bản phù hợp với lợi ích của cả cộng đồng dân tộc. Đương nhiên sự phù hợp đó  phải thể hiện thông qua quá trình giải quyết đúng đắn các mâu thuẫn.
Khi nhấn mạnh vài trò của nhân tố giai cấp, chủ nghĩa  Mác - Lênin không hạ thấp vai trò
của nhân tố dân tộc trong quan hệ giai cấp - dân tộc. Trong sự  phát triển lịch sử, vấn đề dân tộc là
một trong những vấn  đề quan trọng hàng  đầu của cách mạng vô sản. Muốn nhận thức và giải
quyết tốt vấn đề dân tộc “phải có quan điểm của giai cấp công nhân, đó là quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mang tính quốc tế. Đoàn kết quốc tế là một trong
những nhân tố quyết định thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng người lao động. Chính vì
vây,  Các Mác và Ăngghen đã thường xuyên nhấn mạnh vấn đề này.
Giai cấp công nhân các nước, đặc biệt là các nước tư bản lớn phải thoát khỏi thiện kiến của
chủ nghĩa dân tộc tư sản. Các Đảng của giai cấp công nhân phải thường xuyên giáo dục chủ nghĩa quốc tế chân chính cho quần chúng nhân dân, nhưng không được quên rằng cuộc đấu tranh giải phóng họ có tính chất dân tộc.
Dân tộc là địa bàn trực tiếp của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân. Mỗi dân tộc có nhiều giai cấp, cùng tồn tại và phát triển. Do đó “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải tự
vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”.
Nếu như áp bức giai cấp là nguyên nhân sâu xa của áp bức dân tộc thì áp bức dân tộc tác
động mạnh mẽ trở lại áp bức giai cấp. Áp bức dân tộc nuôi dưỡng áp bức giai cấp và làm sâu sắc
thêm áp bức giai cấp. Đấu tranh giai cấp tác động vào đấu tranh dân tộc. Đấu tranh dân tộc tác
động vào đấu tranh giai cấp. Nếu dân tộc chưa có độc lập thống nhất, thì giai cấp đại biểu cho
phương thức sản xuất mới muốn trở thành “giai cấp dân tộc” phải đi đầu trong cách mạng giải
phóng dân tộc, thực hiện nhiệm vụ đầu tiên là khôi phục độc lập dân tộc.
Ngày nay, chừng nào trong xã hội còn đối kháng giai cấp, đấu tranh giai cấp, vấn đề quan
hệ, giai cấp và dân tộc được giải quyết trên lập trường giai cấp nhất định.
11.3.2. Quan hệ giữa giai cấp và nhân loại
Khái niệm: Nhân loại chỉ toàn thể cộng đồng người sống trên trái đất từ hàng triệu năm nay.
Nhân loại, một mặt phân chia thành các giai cấp, tầng lớp có vai trò xã hội và lợi ích khác
nhau, mặt khác phân chia thành các cộng đồng xã hội tộc người có trình độ phát triển khác nhau.
Nhưng nhân loại vẫn là một thể thống nhất. Cơ sở của sự thống nhất đó là bản chất người  của
từng cá thể và của cả cộng đồng, bản chất đó qui định lợi ích chung và qui luật phát triển chung
của cả cộng đồng.
Tuy nhiên, trong quan niệm trước C. Mác, từ thời cổ đại, nhiều nhà tư tưởng không muốn
thừa nhận sự thống nhất trên bản chất người của cả cộng đồng nhân loại.
Quan niệm về quyền con người, bản chất của con người và tính thống nhất toàn nhân loại
của các nhà tư tưởng trước Mác còn trừu tượng và phiến diện.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không chỉ quan niệm về tính thống nhất toàn nhân loại ở bản chất
tộc loại trừu tượng của con người, mà chỉ rõ bản chất xã hội của con người và loài người, bản chất
ấy là cơ sở của sự thống nhất cộng đồng nhân loại. Con người là sinh vật có bản chất xã hội, do đó
nhân loại là cộng đồng của những thực thể  xã hội.
Nền văn minh của nhân loại có được như ngày nay là thành quả lao động sáng tạo của cả
loài người. Từng con người, từng tập đoàn người, cộng đồng người riêng lẻ không thể tạo ra được
văn minh nhân loại. Các cá nhân dân tộc, giai cấp không thể tồn tại phát triển nếu tách rời sự tồn
tại và phát triển  của cả nhân loại. Do vậy, nhân loại có lợi ích chung là bảo vệ và phát triển cuộc
sống, nền văn minh của loài người. Nền văn minh của nhân loại bị đe doạ huỷ diệt thì các quốc
gia, dân tộc, các tập đoàn người cũng bị đe doạ bởi sự tiêu vong. Tuy nhiên, trong xã hội có giai
 cấp lợi ích nhân loại gắn liền với lợi ích của giai cấp, lợi ích dân tộc. “Vấn đề” của nhân loại luôn
được nhận thức và xử lý cũng hết sức khác nhau, trong mối quan hệ với giai cấp. Giải quyết vấn
đề nhân loại chủ yếu do các nhà nước quyết định. Mỗi nhà nước lại do một giai cấp đứng đầu, nên
giải quyết vấn đề nhân loại bao giờ cũng theo một lăng kính nhất định, một lợi ích nhất định.
Lợi ích của giai cấp tiến bộ luôn phù hợp với lợi ích của nhân loại. Nhận thức và hoạt động
của nó luôn đấu tranh cải tạo tự nhiên và cải tạo môi trường xã hội. Các giai cấp phản động đối với lịch sử thì lợi ích của giai cấp về căn bản mâu thuẫn với lợi ích chung của dân tộc và lợi ích của toàn nhân loại. Do vậy, “vấn đề giai cấp” không chỉ là vấn đề riêng của một giai cấp, một tầng lớp nào mà đó là vấn đề của toàn nhân loại. Đấu tranh giải phóng các giai cấp, các dân tộc bị áp bức là nội dung cơ bản của quá trình đấu tranh giải phóng con người.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng, muốn giải phóng mình, giai cấp vô sản phải giải
phóng toàn nhân loại khỏi áp bức và nô dịch của chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, lợi ích của giai cấp vô
sản về căn bản phù hợp với lợi ích của toàn nhân loại.
Ngày nay, thế giới hiện đại vẫn đang bị phân chia theo quan điểm các giai cấp khác nhau, vì
vậy vấn đề giai cấp vẫn được ưu tiên so với vấn đề toàn nhân loại trong chính sách của các quốc
gia cụ thể.

KẾT LUẬN
Học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin đã lý giải một các khoa
học về các hiện tượng của xã hội có giai cấp. Học thuyết đã vạch rõ những tiêu chí đưa đến sự tồn
tại  của các giai cấp, chỉ rõ nguyên nhân kinh tế của sự xuất hiện giai cấp, nó cũng chỉ rõ kết cấu
giai cấp - xã hội của xã hội có phân chia giai cấp. Đặc biệt với học thuyết này, chủ nghĩa Mác -
Lênin khẳng định vai trò của đấu tranh giai cấp - một trong những động lực thúc đẩy xã hội có
giai cấp phát triển. Học thuyết cũng chỉ rõ mối quan hệ đan xen, phức tạp của giai cấp với dân tộc,
giai cấp với nhân loại trong điều kiện hiện nay. Học thuyết giai cấp đấu tranh, giai cấp là cơ sở lý
luận cho các Đảng cộng sản xây dựng đường lối, chiến lược, sách lược trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã kết hợp chặt chẽ
lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích của nhân loại. Trong khi thực hiện nhiệm vụ giai cấp và
nhiệm vụ dân tộc, Đảng, nhà nước và nhân dân ta rất coi trọng và góp phần tích cực vào việc giải
quyết những vấn đề toàn cầu. Trước hết là bảo vệ sự sống của con người trên trái đất, đấu tranh
góp phần loại bỏ chiến tranh hủy diệt, bảo vệ môi trường sinh thái, chống đói nghèo, các căn bệnh
thế kỷ…Việt Nam chủ trương hợp tác chặt chẽ với các dân tộc, các lực lượng xã hội có thiện chí
trên thế giới để cùng phấn đấu vì tương lai tốt đẹp của nhân loại.